 |
Cách nuôi Thỏ // Kỹ thuật nuôi Thỏ - Bài 2 |
I. SỰ THUẦN HÓA GIỐNG THỎ
Các
giống thỏ nhà trên thế giới hiện nay đều có nguồn gốc từ thỏ
rừng (Orytolaguc cuniculus) thuộc Họ thỏ nhà và thỏ rừng (Leporidae),
trong Bộ gậm nhấm riêng biệt có răng cửa kép (Lagomorpha), của Lớp động
vật có vú (Mammalia)
Nói chung sự thuần hoá thỏ rừng thành thỏ nhà chỉ khoảng vài trăm năm
gần đây. Thỏ rừng ở Châu Âu được phát hiện bởi những nhà ngữ âm học khi
họ đến bờ biển Tây Ban Nha vào năm 1000 trước công nguyên. Thỏ là biểu
tượng của Tây Ban Nha vào thời kỳ La Mã. Từ đầu thế kỹ 19 việc nuôi thỏ
đã phát triển khắp Tây Âu và được người Châu Âu đưa thỏ đi du nhập ở tất
cả các nước trên thế giới. Cuối thế kỹ 19 và nhất là đầu thế kỹ 20 cùng
với phương pháp nuôi nhốt cùng với các giống thỏ đã thích nghi với điều
kiện nuôi nhốt đã được chọn lọc và thay đổi dần về ngoại hình, sinh lý
thích nghi với hoàn cảnh cụ thể và khả năng sản xuất phù hợp với nhu cầu
thâm canh cùng với các kỹ thuật chăn nuôi tiên tiến đáp ứng nhu cầu sản
xuất và lợi nhuận, bệnh tật của thỏ ngày càng được nghiên cứu và khống
chế cũng như là có thể điều trị và phòng ngừa được càng ngày càng phát
triển với mục đích sản xuất thịt thỏ để làm động vật thí nghiệm và làm
sinh vật cảnh.
II. CÁC GIỐNG THỎ
Hiện nay chăn nuôi thỏ khá phát triển chủ yếu là nuôi thỏ hướng thịt
hoặc nuôi thỏ kiêm dụng lấy thịt và lông len. Do vậy có nhiều giống thỏ
lớn con dùng sản xuất thịt ở Châu Âu, Châu Mỹ và một số giống thỏ nhỏ
con ở các nước nhiệt đới phát triển tại địa phương hay từng quốc gia.
Bên cạnh đó cũng có một số giống chuyên sản xuất lông len chủ yếu là ở
nước ôn đới. Nuôi thỏ hướng thịt thường chọn giống có tầm vóc khá lúc
trưởng thành có trọng lượng 4,5 đến 5 kg; cũng chú ý những giống thỏ này
có bộ xương nhỏ có tỷ lệ thịt xẻ cao.
Một cách chung nhất người ta chia thỏ dựa theo tầm vóc: nhóm nặng ký
(Trọng lượng trưởng thành hơn 5kg) như Bouscat Giant White, French and
French Giant Pabillon; nhóm trung bình (Trọng lượng trưởng thành hơn
3,5-4,5kg) như Californian, New Zealand White, Grand Chinchilla,…
Nhóm thỏ nhẹ cân (trọng lượng trưởng thành từ 2,5-3kg) như Small
Chinchilla, Duch and French Havana, Himalayan,… và nhóm nhỏ con (trọng
lượng trưởng thành hơn 1kg). Dưới đây là một số giống thỏ hướng thịt chủ
yếu và phổ biến ở Việt Nam:
1. Thỏ Newzeland trắng
 |
Cách nuôi Thỏ // Kỹ thuật nuôi Thỏ - Bài 2 |
Giống thỏ này được nuôi ở nhiều nước và phổ biến ở nhiều nơi trên thế
giới ở Việt Nam do khả năng thích nghi với các điều kiện sống cao. Giống
thỏ này có toàn thân màu trắng, lông dày, mắt đỏ như hòn ngọc, có tầm
vóc trung bình, thỏ trưởng thành nặng khoảng 4,5 - 5 kg. Mỗi năm thỏ đẻ
trung bình 5 - 6 lứa mỗi lứa đẻ trung bình từ 6 -7 con. Như vậy đối với
giống thỏ này một thỏ cái trung bình cho 20 - 30 con/năm. Thỏ cai sữa
thường được nuôi vỗ béo đến 90 ngày tuổi thì giết thịt. Như vậy môt thỏ
mẹ trong một năm có thể sản xuất từ 30 - 45 kg trọng lượng sống nếu nuôi
tốt có thể đạt 60 - 90 kg và thêm từ 20 – 30 tấm lông da.
2. Thỏ Californian
Giống thỏ này được tạo ra và phát triển từ Mỹ (khoảng 1920) từ 2 giống
New Zealand White và Himalyan và sau đó có sự tham gia của giống
Chinchilla với mục đích tạo ra giống thỏ có thịt và len có chất lượng
cao. Chúng được nhập vào từ Anh lần đầu tiên vào năm 1958. Tuy nhiên đến
năm 1960 mới công bố chính thức với số lượng 400 con.
 |
Cách nuôi Thỏ // Kỹ thuật nuôi Thỏ - Bài 2 |
Đây là giống thỏ tạo ra được lợi tức cao cho người nuôi thỏ thương
phẩm. Đặc điểm của giống thỏ này là có bộ lông màu trắng tuyết, trừ hai
tai thỏ có màu đen, mũi, đuôi và 4 chân có màu tro hoặc màu đen. Thỏ
trưởng thành có trọng lượng 4 - 4,5 kg, con đực nặng từ 3,6 - 4,5 kg con
cái nặng 3,8 - 4,7 kg. Mỗi năm thỏ đẻ khoảng 5 lứa. Mỗi năm thỏ đẻ
khoảng 5 lứa mỗi lứa khoảng 5-6 con. Thỏ này đã nhập vào nước ta ở Sơn
Tây (1977) và đã thích nghi với điều kiện khí hậu và nuôi dưỡng chăm
sóc. Thỏ Californian có tầm vóc trung bình, tỷ lệ thịt xẻ cao từ 55 - 58
% chúng được nuôi phổ biến trên thế giới và đã trở thành giống thỏ thịt
đứng thứ hai trên thế giới (Sandford, 1996). Tuy nhiên qua thử nghiệm 3
năm nuôi ở ĐBSCL với các loại thức ăn thông thường, giống thỏ thuần
Californian tương đối khó nuôi, đẻ kém và tỉ lệ thỏ con hao hụt cao so
với thỏ thuần New Zealand.
3. Thỏ Chinchilla
Thỏ Chinchilla lần đầu tiên được trình diễn tại Pháp 1913 bởi J.J.
Dybowski được tạo ra từ thỏ rừng và 2 giống Blue Beverens và Himalyans
được xem như là giống thỏ cho len. Giống thỏ này có 2 dòng một có trọng
lượng 4,5 - 5 kg (Chinchilla giganta) và dòng kia 2 - 2,5 kg lúc trưởng
thành. Giống thỏ này đẻ trung bình mỗi lứa từ 6 - 8 con có khả năng
thích nghi với các điều kiện chăn nuôi khác nhau. Thỏ có lông màu xanh,
lông đuôi trắng pha lẫn xanh đen, bụng màu trắng xám đen
4. Thỏ English Spot
Giống thỏ English Spot có tầm vóc trung bình trọng lượng trưởng thành
2,5 - 3,5 kg ở cái và đực, được chọn lọc và phát triển ở Anh quốc. Nó có
đặc điểm là thân có màu lông trắng với các đốm màu xậm ở trên cơ thể,
tai thẳng đứng, mông rộng tròn và hơi lớn hơn phần vai, chân dài và mảnh
khảnh. Giống này được nhận biết với các đốm xậm màu ở 2 vòng mắt, má và
tai, sóng lưng và đuôi. Các đốm này có màu sắc phổ biến là đen, xanh
dương, sô cô la, nâu, vàng, v..v.. Giống thỏ này hiện nay cũng tham gia
vào máu của con thỏ lai ở Việt Nam khá phổ biến.
5. Nhóm thỏ Việt Nam
a, Thỏ đen và thỏ khoang trắng đen
Nhóm thỏ ở Việt Nam được du nhập từ Pháp vào khoảng từ 70 - 80 năm
trước đây. Chúng đã được lai tạo giữa nhiều giống khác nhau, nên đã có
nhiều ngoại hình và tầm vóc khác nhau, phần lớn có màu lông ngắn, màu
đen, trắng mốc, khoang trắng đen, trắng vàng, trắng xám có thể trọng
khoảng 2 kg, Người ta thường gọi tên theo màu sắc lông như thỏ Dé thì
nhỏ con, nhẹ cân, có trọng lượng 2,2-2,5kg. Nhìn chung nhóm thỏ này có
màu lông khoang, lang hay đốm, trắng, vàng đen, xám riêng màu lông ở
phần dưới bụng, ngực, đuôi có màu xám nhạt hơn hoặc màu xám trắng. Màu
mắt đen, đầu nhỏ lưng khum trọng lượng trưởng thành 2,5-3kg; và thỏ đen
có lông ngắn, có màu đen tuyền, màu mắt đen, đầu to vừa, miệng nhỏ bụng
thon, bốn chân dài thô, xương thô. Trọng lượng trưởng thành 2,6-3,2kg.
Một vài nơi có các giống thỏ lông xù màu trắng do có màu của giống
Angora.
 |
Cách nuôi Thỏ // Kỹ thuật nuôi Thỏ - Bài 2 |
Đặc điểm sinh sản của hai giống thỏ màu xám và màu đen của Việt Nam có
khác so với thỏ mới nhập nội và thỏ lai thương phẩm khác. Chúng vẫn còn
bảo tồn tính năng sản xuất của thỏ rừng xa xưa như động dục sớm 4,5 - 5
tháng tuổi, mắn đẻ sau khi đẻ từ 1 đến 3 ngày đã chịu đực phối giống
lại, thỏ vừa tiết sữa vừa nuôi con và có chữa nên nếu gia đình có điều
kiện tốt thì thỏ sẽ đẻ liên tục, mỗi năm từ 7 đến 8 lứa và giao động từ 4
- 11con/ lứa. Một trong những tập tính của thỏ là nhổ lông làm ổ đẻ,
đối với tập tính này thỏ đen và xám của Việt Nam thể hiện rõ hơn so với
thỏ nhập nội. Các thỏ trước khi đẻ thường tự lấy rác, rơm cỏ vào trong ổ
và tự nhổ nhiều lông bụng lông ngực để trộn thành tổ ấm mềm, để đẻ con
trong đó, ít có trường hợp đẻ con ngoài ổ.
Sức đề kháng tốt của thỏ Việt Nam và thỏ Lai được thể hiện rõ nét hơn
thỏ nhập nội điều này thể hiện qua một số chỉ tiêu sinh lý.
b, Nhóm thỏ lai ở vùng ĐBSCL
Nhóm thỏ lai ở vùng ĐBSCL được lai tạo từ các giống thỏ ngoại nhập vào
Việt Nam những năm 90 với thỏ lai địa phương, chúng có tầm vóc khá, màu
sắc đa dạng pha trộn giữa các giống như New Zealand, Chinchilla,
Californian, English Spot, v..v… Trong điều kiện nuôi dưỡng còn hạn chế
về dinh dưỡng hiện nay với thức ăn thô xanh và bổ sung các loại phụ phẩm
thỏ cái trưởng thành (đẻ lứa 3) đạt 3,2 - 3,8 kg. Thỏ thịt nuôi từ 4 -
4,5 tháng đạt 2,2 - 2,4 kg. Đây là nhóm thỏ được nuôi chủ yếu ở ĐBSCL
cho thịt rất hiệu quả vì tận dụng được nguồn thức ăn rau cỏ địa phương.
 |
Chỉ tiêu sinh lý thông thường của thỏ Việt Nam và thỏ New Zealand |
Ngoài ra còn một số giống thỏ khác có tiếng trong khu vực hay những châu
lục khác như nhóm giống thỏ cho lông len Angora, American Sable,
Britannia Petite,v..v… Tuy nhiên chúng chưa phổ biến ở nước ta.
6, Những đặc điểm giống và khả năng sản xuất của thỏ.
Những đặc điểm giống và khả năng sản xuất của thỏ phụ thuộc vào môi
trường sống và kinh nghiệm phát triển của nhà nhân giống. Sự so sánh
những kết quả từ những môi trường và địa lý khác nhau có thể cho thấy
những đặc tính chung của giống. Tính mắn đẻ, mức tăng trọng và sự phát
triển các cơ quan, tổ chức của cơ thể ở thỏ tơ là 3 đặc tính cơ bản của
giống.
a.Tính đẻ sai con.
Tính đẻ sai con được đo lường bằng số thỏ con sống hay tổng số thỏ sơ
sinh. Số lượng con trong bầy tăng khoảng 10-20% từ lứa đầu tiên cho đến
lứa thứ hai. Tuy nhiên sẽ không có sự khác biệt từ lứa thứ ba đến lứa
thứ tư và từ lứa thứ tư trở đi thì số lượng thỏ sơ sinh trong bầy sẽ
giảm. Sự đồng huyết trong nhân giống cũng sẽ làm giảm tính đẻ sai con.
Nó còn phụ thuộc vào mùa và năng suất sinh sản của thỏ cái. Yếu tố đầu
tiên ảnh hưởng đến sự đẻ sai là số trứng rụng và sau đó là khả năng sống
của phôi. Giống thỏ khác nhau cũng cho năng suất sinh sản khác nhau
 |
Tính đẻ sai con |
b.Tăng trọng và thành phần cơ thể:
Mức độ tăng trọng của thỏ tơ thì tương quan chặt chẻ với tầm vóc và
trọng lượng trưởng thành của chúng trong trường hợp không có sự khiếm
khuyết dưỡng chất trong khẩu phần đáng ghi nhận. Sự biến động và thành
phần cơ thể thì lớn ở các giống thỏ được nuôi, ví dụ giống thỏ New
Zealand White và Himalyan. Tăng trọng và mức độ tăng trưởng của những tổ
chức chính phụ thuộc vào đặc điểm sinh học của giống và sự nuôi dưỡng.
Do vậy chỉ tiêu mô tả về giống trong một môi trường sản xuất nhất định
nên là tuổi trưởng thành. Những giống được chú ý trên quan điểm sản xuất
là tỉ lệ tốt nhất giữa tăng trọng và trọng lượng trưởng thành mà nó đến
sớm ở một trọng lượng sống thích hợp cho thị trường. Những giống nhẹ
cân có thể được tận dụng như là những giống thuần hay tốt hơn là lai với
những giống có trọng lượng trung bình để sản xuất ra quầy thịt có sự
phát triển cơ tốt và thịt có chất lượng có nhu cầu tiêu thụ.
c. Sự di truyền về đặc điểm giống
Sự cải thiện di truyền về đặc điểm giống thích hợp cho môi trường sản
xuất phụ thuộc vào tính biến động di truyền đặc trưng mà nó bộc lộ ra
môi trường. Tính biến động là sự bộc lộ về những khác biệt di truyền mà
trong chọn lọc và nhân giống cố gắng để khám phá chúng. Câu hỏi đặt ra ở
đây là làm sau có thể khám phá ra tính biến động di truyền trong sản
xuất qui mô nhỏ. Nâng cao tiềm năng của giống phụ thuộc vào đặc tính
sinh học, ưu thế của sự sinh sản và sự tính toán các thông số di truyền
cho sự chọn lọc.
d. Gen và môi trường sống
Hầu hết những đặc tính di truyền số lượng như thụ tinh, sức sống, tăng
trưởng thì được quyết định bởi nhiều gen và chúng cũng bị chi phối bởi
môi trường sống. Kiểu hình là kết quả của ảnh hưởng kiểu gen kết hợp với
môi trường. Kiểu gen là kết quả của ảnh hưởng gen ở vài vị trí của nó
(locus). Môi trường bao gồm khí hậu, chỗ ở, tiểu khí hậu, nhiệt độ, ẩm
độ, tốc độ gió dụng cụ trang thiết bị, kỹ thuật phối giống và nuôi dưỡng
và kinh nghiệm của nhà nhân giống. Xác định di truyền của sự biến động
của các tính trạng là sự có lợi song hành của nhà chọn lọc và người làm
công tác giống. Đầu tiên là sự khám phá biến động di truyền của thỏ cùng
giống và cùng quần thể; kế đến bằng sự lai giống để khám phá tính biến
động di truyền giữa giống và các quần thể.
e. Sự lai giống ở các nước nhiệt đới
Những nền tảng sinh học tạo ra những con lai ưu trội về các tính trạng.
Chúng nên được khám phá trong những quần thể được nhân giống trong môi
trường khác nhau. Những nghiên cứu ở qui mô lớn trên những giống lai ở
các nước nhiệt đới từ Cuba (ẩm) và Mexico (khô) đã được tường trình.
Những nghiên cứu này thực hiện trên những giống thỏ nhập nội. Sự sản
xuất sữa được cải thiện bằng sự sử dụng con lai tốt nhất. Kết quả đã
được cho thấy tầm quan trọng của các giống thuần và giống lai sẳn sàng
cho quá trình nghiên cứu thí nghiệm.
III. PHƯƠNG PHÁP CHỌN LỌC VÀ NHÂN GIỐNG THỎ
Tiến trình chọn lọc và lai giống thỏ tập trung trong một qui mô sản
suất thương mại ở các nước ôn đới thì không cần thiết. Tuy nhiên ở qui
mô nhỏ từ 10 dến 60 thỏ cái của quần thể thỏ địa phương được cho phối từ
những con đực và cái nhập của các giống thỏ khác nhau nhằm để tăng chất
lượng đàn giống là cần thiết. Sự cải thiện di truyền một cách hiệu quả
trong tiến trình chọn lọc và nhân giống nên là nổ lực theo nhóm với sự
hổ trợ về khoa học và kỹ thuật từ các tổ chức nghiên cứu và phát triển.
Chương trình cải tiến có thể tập trung ở một xã hay thích hợp hơn là một
nhóm xã, hay cũng có thể là một số trại thỏ ở một số Tỉnh trên toàn
quốc. Trong trừơng hợp này chương trình đòi hỏi sự chuyển hoá kỹ thuật.
Do vậy nên có những nhà nhân giống với những đơn vị có qui mô lớn từ
100- 200 thỏ cái sinh sản. Những nhà chọn lọc và nhân giống này nên có
kinh nghiệm bằng việc sử dụng các hệ thống sản xuất đáp ứng tốt với điều
kiện và nguồn lực tại địa phương. Những phương tiện sử dụng hiện đại và
phức tạp nên được tránh, tuy nhiên cần đặc biệt chú ý đến việc tiến
hành trong hoàn cảnh những trại thỏ thương phẩm tốt nhất. Vệ sinh và sức
khoẻ của thỏ phải được đặc biệt chú ý. Đơn vị chọn lọc phải có hiệu quả
ở hai mức độ là nhân giống và sản xuất.
1. Các phương pháp chọn lọc
a. Chọn lọc quần thể
Căn cứ vào giá trị trung bình của các tính trạng như số lứa đẻ/năm, số
con trên/lứa, trọng lượng sơ sinh toàn ổ và trọng lượng bình quân/con
chọn lọc theo gia đình, chúng ta giữ lại những gia đình từ giá trị trung
bình trở lên của giống hoặc loại thải những gia đình có thành tích dưới
mức trung bình của giống theo yêu cầu chọn lọc của chúng ta. Ví dụ đối
với giống thỏ Califonian, người ta thường chọn những gia đình thỏ đạt
kết quả bình quân khá về các đặc tính sản xuất như: Một năm đẻ 5 lứa trở
lên, mỗi lứa đẻ 6 con nuôi sống, trọng lượng con sơ sinh là 50gam và
trọng lượng toàn ổ là từ 300gam trở lên.
b. Chọn lọc cá thể
Đây là điểm quan trọng để có những cá thể tốt đưa vào tiến trình nhân
giống cá thể phải được ghi chép các thành tích đầy đủ để đánh giá và
quyết định nên loại thải hay sử dụng tiếp tục trong tiến trình nhân
giống. Cần chú ý những đặc tính sản xuất và đặc điểm ngoại hình của
giống thỏ mà ta muốn chọn lọc. Ví dụ giống thỏ nuôi hướng thịt nói
chung hai mông phải nở nang, hai thăng thịt bên cột sống cũng phải nở
nang. Để bảo đảm đúng đặc điểm ngoại hình, nên chọn thỏ vào lúc 5 - 6
tháng tuổi là tốt nhất vì lúc này ngoại hình thỏ đã phát triển khá hoàn
thiện.
Đầu tiên phải chú ý đến con cái và con đực không bị khuyết điểm ở bộ
phận sinh dục, con đực hai dịch hoàn phải đều, con cái phải có 8 vú trở
lên. Việc lựa cá thể nên bắt đầu khoảng 21 ngày tuổi, khi khảo sát lúc
70 ngày tuổi nếu thỏ không đạt yêu cầu đặt ra thì phải loại thải ngay.
Lúc thỏ đạt 6 tháng tuổi nếu không đủ tiêu chuẩn thì vẫn tiếp tục loại.
Chung nhất việc chọn lọc giống thỏ thông thường được tiến hành ở các
thời điểm như sơ sinh, 21, 30, 70, 90, 180 ngày tuổi. Thỏ nên được cân ở
tất cả các thời điểm, nếu là giai đoạn sơ sinh và 21 ngày tuổi thì cân
cả ổ rồi tính trọng lượng bình quân. Lúc 21 ngày tuổi đánh số các con
đạt tiêu chuẩn trọng lượng bằng cách bấm tai và chọn thỏ dựa vào đặc
điểm ngoại hình ở 6 tháng tuổi.
Thành tích về thể trọng thỏ phải đạt tiêu chuẩn như trọng lượng sơ sinh
trung bình là 50g ở thỏ nhập nội, 35 gam đối với thỏ địa phương; lúc 21
ngày tuổi 200gam đối với thỏ địa phương, 250 gam đối với thỏ nhập nội;
lúc 30 ngày tuổi 500 gam đối với thỏ nhập nội và 350 gam đối với thỏ địa
phương. Mức tăng trọng hằng ngày lúc 70 ngày tuổi phải đạt từ 25 - 30
gam/ngày giai đoạn 21 ngày tuổi đến 70 ngày tuổi. Những con đạt mức tăng
trọng trên 30 gam/ ngày là xuất sắc. Trọng lương xuất chuồng lúc 6
tháng tuổi thường đạt 3 kg đối với thỏ nhập nội, 2 đến 2,5 kg đối với
thỏ địa phương.
Phương pháp chọn lọc giống thỏ nêu trên thường cho kết quả nhanh
chóng, nó trực tiếp kiểm tra năng suất cá thể, năng suất anh em trong
một gia đình và họ hàng. Những kết quả tốt đẹp được phát huy qua sự ghép
đôi giao phối giữa những con có thành tích tốt với nhau.
Thí dụ: Có 10 thỏ đực và 50 thỏ cái cho ghép đôi giao phối, mỗi gia đình
có 1 đực và 5 cái. Thỏ đực đánh số từ số 1 đến số 10 và gọi là gia đình
số 1 đến số 10. Sau một năm thỏ sinh sản thu được kết quả như sau:
 |
Kết quả sinh sản của 10 gia đình thỏ |
Qua số liệu thu thập ở bảng trên cho chúng ta thấy những gia đình thỏ
số 3, 4, 6, 10 không được chọn làm giống phải loại thải. Các gia đình
thỏ số 1, 2, 5, 7, 9 được tiếp tục chọn và cho sinh sản để làm giống.
Đàn con của các gia đình thỏ này sẽ được tiếp tục chọn lọc cá thể chặt
chẻ ở các giai đoạn sau.
2. Phương pháp nhân giống thỏ
a. Nhân giống thuần
Nhân giống thuần chủng là phương pháp nhân giống trong cùng một giống
tạo ra thỏ con có đặc điểm tính trạng di truyền ổn định của giống. Nó
được áp dụng khi đàn thỏ bố mẹ được xác định đã có năng suất cao ổn
định. Do vậy những đặc tính chắc chắn có lợi về mặt kỹ thuật và kinh tế
sẽ được chọn lọc và phát huy. Sự ổn định về di truyền giống sẽ cao.
Nhân giống trong dòng
Là cách nhân giống nhằm tạo ra từng nhóm thỏ đã chọn lọc có tính di
truyền ổn định và phẩm giống cao hơn bình thường. Để tạo ra đàn thỏ có
những ưu điểm đặc biệt cần phải tiến hành chọn đôi giao phối và chọn lọc
con giống qua nhiều thế hệ và có nhiều cá thể tham gia trong quá trình
tạo giống. Nếu số con đưa vào chọn lọc quá ít và thời gian ngắn thì kết
quả sẽ rất hạn chế. Phương pháp này cũng dẫn đến một mức độ đồng huyết
nhất định. Nếu như số lượng thỏ tham gia dưới mức cho phép sẽ dẫn đến
đồng huyết năng suất sẽ kém, số con chết sẽ tăng lên do hiện tượng đồng
hợp tử gen xấu xuất hiện. Kinh nghiệm cho thấy nếu dòng thỏ đực dưới 40
con và 200 con cái thì không thể duy trì dòng thuần được. Nếu định duy
trì dòng thuần trong công tác giống thì phải có số lượng thỏ đực và cái
nhiều hơn thế hoặc là ít nhất là bằng số lượng trên. Đây là phương pháp
có tầm quan trọng đặc biệt trong sự tạo ra dòng thỏ vừa có phẩm chất
tốt được cải thiện vừa đảm bảo sự ổn định cao về tiềm năng di truyền,
tuy nhiên có nhiều tốn kém về tài chính để loại bỏ những thỏ có khả năng
làm tăng sự đồng huyết trong đàn giống.
Nhân giống khác dòng
Là sự cho phối giống những con thỏ khác dòng với nhau nhằm hạn chế bớt
sự đồng huyết xảy ra, tuy nhiên vẫn ổn định được những tiềm năng di
truyền tính trạng có lợi ích của giống.Ta có thể cho phối giống cho giao
phối chỉ hai dòng hay liên tục cho phối nhiều dòng với nhau với dòng
khác hoặc sau đó cho phối với thỏ dòng cũ để ổn định hay bổ sung đặc
tính mới được hình thành. Thông thường phương pháp này có thể tạo ra
những dòng mới thích nghi được những điều kiện nuôi dưỡng hay khí hậu ở
những cơ sở khác nhau.
b. Lai giống thỏ
Là sự phối giống của những thỏ đực và thỏ cái khác giống, nhằm để tạo
ra con lai có các tính trạng cần thiết trung gian hay tốt hơn cả bố lẫn
mẹ nó, do hiện tượng ưu thế lai được tạo ra từ các dị hợp tử. Đây có thể
là phương pháp phổ biến nhằm mục đích tạo ra thỏ làm giống để sản xuất
thỏ thương phẩm hay tạo ra những giống mới. Tiến trình này dùng để sản
xuất con lai có năng xuất cao. Thỏ đực và thỏ cái dùng để tạo giống mới
thường là giống thuần chủng khác nhau mới có thể cho kết quả cao. Chúng
ta có thể lai chỉ hai giống hoặc trên hai giống, cũng có thể sau khi tạo
ra giống mới ta cần phải ổn định các tính trạng di truyền của chúng
bằng các phương pháp nhân giống thuần.
c. Thực hành phối giống
Cần thiết cho thỏ phối giống hợp lý nhất khi nó đã thành thục về tính
dục và thể trọng. Để bảo đảm tỷ lệ thụ thai cao và duy trì nòi giống tốt
nên ghép đôi giao phối 1 thỏ đực với 5 thỏ cái (đối với cơ sở giống
thỏ). Chúng ta cũng có thể ghép 1 thỏ đực với 10 thỏ cái đối với các cơ
sở nuôi thương phẩm. Khi cho thỏ giao phối nên đưa con cái đến chuồng
con đực, không nên làm ngược lại. Mỗi thỏ cái nên cho phối 2 lần với 1
thỏ đực cách nhau khoảng 4 - 6 giờ để có kết quả chắc chắn và số con
được nhiều. Cũng có thể tiến hành giao phối bằng cách hai lần với 1 con
đực sau 5 đến 10 phút. Phương pháp này ít tốn thời gian nhưng tỷ lệ thụ
thai thấp hơn 10%. Đối với các cơ sở thương phẩm cũng có thể phối giống
hai thỏ đực khác nhau vì thỏ con đẻ ra đều dùng làm thỏ thương phẩm. Sau
10 ngày phối giống nên kiểm tra thai thỏ nếu không có chữa thì cho phối
lại. Trong chuồng thỏ nên nhốt thỏ đực và thỏ cái vào các ngăn riêng
qui định theo ghép đôi giao phối